Tổng nợ xấu nội bảng của 28 ngân hàng cuối quý 1 là hơn 170 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với cuối năm 2022. Trong đó có 25 ngân hàng ghi nợ xấu tăng.
Số ngân hàng niêm yết có tỷ lệ nợ xấu dưới 1% hiện nay chỉ còn 3 cái tên là Vietcombank, Techcombank, ACB. Nhưng nợ xấu của những ngân hàng này cũng không nằm ngoài xu hướng đều tăng lên trong quý 1/2023.
Tại VCB, nợ xấu nội bảng cuối quý 1 là 9.942 tỷ đồng tăng 275 so với đầu năm. Trong đó, chủ yếu do nợ nhóm 3 tăng gấp 6 lần lên 2.524 tỷ đồng, nợ nhóm 4 tăng 25.2% lên 980 tỷ, nợ nhóm 5 giảm 2.8% xuống 6.439 tỷ đồng.
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay của VCB theo đó tăng từ 0.68% lên 0.85%/năm, tiếp tục là một trong những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất. Ngoài ra, VCB sở hữu bộ đệm dự phòng rủi ro vững chắc với tỷ lệ dự phòng bao phủ nợ xấu đạt 321%, cao hơn mức 319% hồi đầu năm và cao nhất hệ thống. Điều này có nghĩa, mỗi đồng nợ xấu của ngân hàng đang được trích lập dự phòng hơn 3,2 đồng.
TCB cũng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu ở mức 0.85% vào cuối tháng 3, tăng so với mức đầu năm. Tổng nợ xấu nội bảng của TCB cũng tăng 913 tỷ đồng quý 1 lên 3.946 tỷ đồng. Trong đó, nợ nhóm 3 là 1.171 tỷ đồng, nợ nhóm 4 là 1.664 tỷ và nợ nhóm 5 là 1.111 tỷ đồng.

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu tại TCB giảm còn 133.8% tuy nhiên vẫn nằm trong nhóm cao nhất trên thị trường.
Theo ông Ngô Hoàng Hà – Giám đốc cao cấp tài chính doanh nghiệp TCB, việc phân loại nợ theo CIC có ảnh hưởng tới TCB trong quý 1. Cụ thể, một công ty BĐS tuyên bố dừng hỗ trợ lãi suất cho khách hàng đã dẫn đến một số tranh chấp và khách hàng không thanh toán nợ, từ đó một số ngân hàng chuyển sang nhóm nợ sang nhóm cao hơn. Vì vậy, dù khách hàng đó có vẫn đang trả đủ nợ tại TCB nhưng ngân hàng cũng phải điều chỉnh nhóm nợ, chủ yếu là sang nợ nhóm 2 và một ít nợ nhóm 3. Nếu loại trừ nợ xấu CIC thì tỷ lệ nợ xấu của TCB chỉ ở mức 0.69%.
ACB cũng là ngân hàng có nợ xấu nội bảng cuối quý 1 ở mức 4.003 tỷ đồng tăng 31% so với đầu năm. Trong đó, chủ yếu nợ nhóm 4 tăng 149% lên 1.009 tỷ đồng, nợ nhóm 3 tăng 94% lên 859 tỷ đồng. Nợ nhóm 5 giảm nhẹ 5% xuống 2.052 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng tăng lên từ 0.74% lên 0.98%.
Trong khi ba ngân hàng trên duy trì được tỷ lệ nợ xấu dưới 1% thì vẫn còn nhiều ngân hàng ghi nhận mức 2.5% thậm chí là xấp xỉ 3%.
Theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, tỷ lệ nợ xấu nội bảng được kiểm soát ở mức dưới 3%. Nhưng qua rà soát, NHNN nhận thấy có một số khoản chưa phải là nợ xấu theo quy định của pháp luật hiện hành nhưng có nguy cơ chuyển nợ xấu (như các khoản nợ được cơ cấu lại và giữ nguyên nhóm nợ, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp với mục đích cơ cấu lại nợ, Các khoản phải thu khó đòi). Do đó, cần ghi nhận được khoản này để có giải pháp quản lý xử lý nhằm ngăn ngừa nguy cơ chuyển nợ xấu trong tương lai.

NHNN xác định tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu của hệ thống các TCTD đến cuối tháng 2/2023 ước tính chiếm 5% so với tổng dư nợ.
Trước xu hướng tăng nợ xấu, NHNN mới đây đã có văn bản yêu cầu các ngân hàng tiếp tục nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh mới nợ nhóm 2 và nợ nhóm xấu, trong đó lưu ý kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; thực hiện phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro theo đúng quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, NHNN cũng đã ban hành thông tư 02/2023 cho phép ngân hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ đối với cho vay hoạt động sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng. Giới phân tích cho rằng, Thông tư này sẽ phần nào tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, từ đó áp lực nợ xấu với các ngân hàng có thể được giảm bớt trong thời gian tới.