Theo trang CNN Business nhận định về sự phục hồi của nền kinh tế Hoa Kỳ thông qua 12 biểu đồ dưới đây.
Thị trường lao động
Số lượng việc làm là một thước đo quan trọng nhất đối với tình hình sức khỏe nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Chỉ chưa đầy 2 tháng, từ tháng 2 đến tháng 4/2020, đại dịch Covid-19 đã khiến cho 22 triệu công việc của người Mỹ.
Cho đến tháng 11/2021, khu vực phi nông nghiệp của Mỹ đã có gần 149 triệu công việc, phục hồi gần 18 triệu công việc so với thời điểm xấu nhất cả đại dịch. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ đang vẫn cần tạo được hơn 4 triệu công việc nữa mới có thể trở về ngưỡng trước Covid-19 xảy ra. Tuy nhiên, nền kinh tế Hoa Kỳ cũng vẫn cần tạo thêm hơn 4 triệu công việc nữa mới có thể trở về ngưỡng trước dịch. Bình thường, Mỹ cần khoảng 100 nghìn đến 150 nghìn công việc mới mỗi tháng để tương xứng với tốc độ tăng dân số.

Tỷ lệ thất nghiệp
Theo định nghĩa của các chuyên gia Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm số người lao động không thể tìm được việc, dù chủ động tìm việc trong 4 tuần gần nhất, so với tổng lực lượng lao động. Tháng 2/2020, tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ là 3,5% thấp nhất trong nhiều thập kỷ. Nhưng đến tháng 4/2020 khi đại dịch bùng phát, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 14,8%. Trong tháng 11/2021 tỷ lệ này đã giảm xuống còn 4,2%.

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) thực
GDP là thước đo rộng nhất về hoạt động kinh tế, tính bằng giá trị của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong phạm vi quốc gia. Dữ liệu này giúp hiểu rõ hơn quy mô của một nền kinh tế và nền kinh tế đó đang vận hành như thế nào.
Quý 1/2020, GDP của Mỹ cả năm đã điều chỉnh theo yếu tố mùa vụ (annualized, seasonally adjusted) đạt 19 nghìn tỷ USD. Đến quý 2/2020, sức ép suy giảm tăng trưởng kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra khiến GDP cả năm của Mỹ giảm còn 17,3 nghìn tỷ USD. Quý 3/2021, GDP cả năm của Hoa Kỳ đạt 19,5 nghìn tỷ USD, nghĩa là đã vượt 500 tỷ USD so với mức trước đại dịch.

Tỷ lệ nợ công so với GDP
Thước đo về nghĩa vụ tài chính của Chính phủ Hoa Kỳ, tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa số tiền mà liên bang vay các bên cho nợ bên ngoài và quy mô của nền kinh tế. Khi tỷ lệ này tăng, Nhà Trắng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc trả nợ hoặc tăng chi tiêu trong tương lai. Tỷ lệ nợ công so với GDP của Mỹ đã tăng từ 80,2% vào quý 1/2020 lên 105,5% vào quý 2/2020. quý 3 năm nay, con số đã giảm còn 96,2%.

Tiêu dùng
Tiêu dùng là số liệu để đo mức chi tiêu của người dân Mỹ vào hàng hoá và dịch vụ sau khi đã điều chỉnh theo lạm phát. Đây là thống kê quan trọng vì tiêu dùng là động lực tăng trưởng lớn nhất của Mỹ. Tháng 2/2020, tiêu dùng cả năm của người Mỹ đã điều chỉnh theo yếu tố mùa vụ của Mỹ là 13,3 nghìn tỷ USD. Tháng 4, mức tiêu dùng giảm còn 10,9 nghìn tỷ USD. Tháng 10/2021, đạt 13,9 nghìn tỷ USD, tăng 600 tỷ USD so với trước đại dịch.

Chỉ số giá tiêu dùng CPI
CPI là một thước đo lạm phát, được tính dựa trên giá của một nhóm mặt hàng hóa và dịch vụ, trong đó gồm lương thực thực phẩm, giao thông, nhà ở… Tháng 2/2020, CPI của Mỹ cũng đã tăng hơn 2,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Khi đại dịch xảy ra, CPI của Mỹ chỉ tăng 0,2% trong tháng 5/2020. Khi nền kinh tế Mỹ mở cửa trở lại thì lạm phát tiếp tục tăng cao đỉnh điểm vào tháng 11 vừa qua, CPI của Mỹ đã tăng 6,88%, mức tăng mạnh nhất kể từ năm 1982.

Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm
Diễn biến lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm có thể gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng Mỹ, thông qua các tác động lên lãi suất và các khoản vay thế chấp nhà, vay đi học, mua xe, và thẻ tín dụng. Lợi suất này cũng là thước đo quan trọng về niềm tin của nhà đầu tư. Khi nhà đầu tư kỳ vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ mạnh hơn trong tương lai, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm thường tăng. Ngược lại, khi họ kỳ vọng tăng trưởng thấp và lạm phát thấp, lợi suất này thường sẽ giảm.
Sau khi lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm chạm đáy 0,55% vào tháng 7/2020, nó đã tăng lên gần 1,5% trong thời gian gần đây, cách không xa ngưỡng 1,6% trước đại dịch.

Lãi suất vay thế chấp nhà kỳ hạn 30 năm cố định
Hầu hết người Mỹ đều cho rằng mua nhà là vụ mua sắm lớn nhất trong đời. Lãi suất vay thế chấp nhà kỳ hạn 30 năm phản ánh chi phí của việc đi vay để mua nhà. Lãi suất này thường giảm khi nền kinh tế suy yếu, một phần bởi nỗ lực kích cầu kinh tế của Fed và thường sẽ tăng khi nền kinh tế khởi sắc. Lãi suất này hiện đang ở mức 3,1% so với mức 3,45% trước đại dịch sau khi chạm mức đáy 2,65% vào tháng 1/2021.

Chỉ số giá nhà toàn quốc S7&P/Case-Shiller Us
Chỉ số này đo giá nhà trên toàn quốc ở Hoa Kỳ theo giá mua những căn nhà hiện hữu dành cho hộ gia đình đơn. Đây là một thước đo về tài sản rất quan trọng của người Mỹ. Đối với hầu hết các gia đình ở nước này, căn nhà là tài sản có giá trị lớn nhất. Theo đó, giá nhà ở Mỹ đã không ngừng tăng cao trong những năm gần đây, đặc biệt tăng mạnh trong năm 2021.

Số nhà mới khởi công
Số nhà mới được khởi công cũng là một chí số đáng chú ý báo hiệu nền kinh tế có thể đi theo hướng nào trong tương lai. Chỉ số đo số căn nhà đơn hoặc căn hộ chung cư được khởi công mỗi tháng. Trong tháng 2/2020 có gần 1,6 triệu căn nhà mới được khởi công ở Mỹ. Con số sụt giảm còn 983.000 căn vào tháng 4/2020 và được phục hồi lên mức 1,5 triệu căn vào tháng 10 năm nay.

Tỷ lệ hàng tồn kho so với doanh số
Tỷ lệ giữa lượng hàng tồn kho với doanh số đo lượng hàng tồn kho mà các doanh nghiệp đang có trong tương quan so sánh với lượng hàng bán được. Khi nhu cầu hàng hóa đạt được mức kỳ vọng của các doanh nghiệp, tỷ lệ ấy hầu như không có quá nhiều sự thay đổi. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp tích trữ quá nhiều hoặc quá ít hàng so với nhu cầu của khách hàng, tỷ lệ sẽ tăng hoặc giảm.
Vào tháng 2/202, trước khi đại dịch Covid-19 tăng lên, tỷ lệ hàng tồn kho so với doanh số của Mỹ là 1,42 lần. Covid-19 khiến tỷ lệ này nhảy vọt lên 1,73 lần vào tháng 4. Đến tháng 9 năm nay, tỷ lệ giảm còn 1,26 lần.

Chỉ số S&P 500
Đây là thước đo rộng nhất của thị trường chứng khoán Mỹ, chỉ số S&P 500 đo giá cổ phiếu của 500 công ty niêm yết đại chúng lớn nhất nước hiện nay. Tỷ trọng của mỗi cổ phiếu trong chỉ số được dựa trên vốn hóa thị trường của doanh nghiệp, nghĩa là những công ty vốn hóa lớn như Apple và Amazon có tỷ trọng lớn hơn trong S&P 500 so với những công ty nhỏ hơn.
Covid-19 đã khiến S&P500 giảm từ đỉnh trước đại dịch là hơn 3.380 điểm vào ngày 14/2 xuống mức đáy gần 2.35 điểm vào ngày 20/3, tương đương giảm gần 32% chỉ trong vòng 1 tháng. Tiếp đó cùng với đà phục hồi của nền kinh tế, chỉ số liên tục tăng và lập đỉnh cao mọi thời đại. So với mức đáy trong đại dịch S&P 500 hiện đã tăng hơn 104%.

(Nguồn: Theo CNN Business )