Trong quý 3 vừa qua, hầu như các hoạt động kinh tế ở TP.HCM đều bị “đóng băng” do giãn cách xã hội. Rõ ràng các con số thống kê cho thấy nền kinh tế trong quý 3 cũng chịu nhiều tác động nặng nề bởi đại dịch. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến nợ xấu ngân hàng trong quý 3 là rất lớn.
Theo số liệu Ngân hàng Nhà nước cho biết tính đến ngày 7/10 tín dụng toàn hệ thống tăng 7,42% so với cuối năm 2020. Tổng phương tiện thanh toán M2 tăng 5.65% so với cuối năm 2020 và tăng 11.56% so với cùng kỳ năm 2020.
Đến cuối tháng 9 vừa qua, các tổ chức tín dụng cho vay với mức lãi suất thấp hơn so với trước dịch với doanh số lũy kế từ 23/1/2020 trên 5,2 triệu tỷ đồng cho 800 nghìn khách hàng. Miễn, giảm hạ lãi suất cho khoảng 1,7 triệu khách bị ảnh hưởng bởi dịch với dư nợ khoảng 2,5 triệu tỷ đồng. Lũy kế từ 23/01/2020 đến 30/9/2021, tổng số tiền lãi TCTD đã miễn, giảm, hạ cho khách hàng khoảng 27,000 tỷ đồng.
Đối với 16 ngân hàng thương mại chiếm đến 75% tổng dư nợ nền kinh tế đã giảm lãi suất cho vay khách hàng theo cam kết với Hiệp hội ngân hàng với tổng số tiền lãi đã giảm lũy kế từ 15/07/2021 đến tháng 9/2021 là 11.813 tỷ đồng đạt 57.31% so với cam kết ban đầu.

VietstockFinance cũng cho thấy tín dụng tính đến cuối tháng 3 tăng trưởng so với đầu năm. Tổng cho vay khách hàng tại 27 ngân hàng đã công bố BCTC đạt gần 7 triệu tỷ đồng. Nhưng chỉ có 2 ngân hàng ghi nhận tăng trưởng tín dụng âm là Bac A Bank (BAB, -1.54%) và Saigonbank (SGB, -2.54%). Các ngân hàng còn lại đều tăng trưởng tín dụng dương so với đầu năm, bình quân tăng 7%.
Tuy nhiên, đến cuối tháng 9/2021 các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn hoàn trả nợ cho 278 nghìn khách hàng với dư nợ 238 nghìn tỷ đồng. Lũy kế giá trị nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng từ 23/1 năm ngoái khoảng 531 nghìn tỷ đồng. Theo Ngân hàng nhà nước do tác động của dịch Covid-19, tỷ lệ nợ xấu nội bảng có xu hướng tăng.
Nợ xấu của ngân hàng chiếm 113 nghìn tỷ đồng, tăng 26% so với đầu năm 2021.
8/27 ngân hàng công bố nợ xấu giảm so với đầu năm nhưng tỷ lệ thấp, bình quân dưới 10% so với đầu năm trừ KLB giảm mạnh nhất (-63%).
Các ngân hàng khác có nợ xấu tăng bình quân 26%, trừ một số tăng đột biến như Nam A Bank (NAB, +149%), VietinBank (CTG, +90%), Vietcombank (VCB, +108%)… Cơ cấu nợ xấu có sự dịch chuyển rõ ràng từ nợ có khả năng mất vốn sang nợ nghi ngờ và tỷ trọng này tăng bằng lần như SGB (gấp 5 lần), Vietbank (VBB, gấp 3,8 lần), ABBAnk (ABB, gấp 2,9 lần). Trong đó ngân hàng đều tăng tất cả nhóm nợ xấu như Vietbank, VCB, TCB… và cũng không có ngân hàng nào ghi nhận giảm tất cả nhóm nợ xấu so với đầu năm.
Có 11/27 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay giảm so với đầu năm. VPbank là ngân hàng duy nhất còn tỷ lệ nợ xấu trên 3%, hiện tại đang ở mức 4%. Nhưng nếu tính riêng ngân hàng mẹ, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay giảm từ mức 2,52% đầu nắm xuống còn 2,28%. Tiếp theo sau đó là Viet Capital Bank (BVB, 2,94%), PGB (2,75%) và ABB (2,91%).
Tại phiên thẩm tra kinh tế xã hội do ủy ban kinh tế của Quốc hội tổ chức, ông Nguyễn Kim Anh phó thống đốc NHNN cho hay, tỷ lệ nợ xấu nội bảng và tiềm ẩn cuối năm 2021 dự kiến đạt mức 7,1% – 7,7%. Dịch bệnh đã gây ảnh hưởng nặng trong 2 năm trở lại đây, NHNN đánh giá độ trễ sẽ còn tác động sang năm 2022 nên ngành ngân hàng sẽ vẫn gặp sóng gió trong năm 2022.
Nợ xấu tiềm ẩn ảnh hưởng lên lợi nhuận ngân hàng năm 2022
Trưởng bộ phận Nguyên cứu Vĩ mô – MBS ông Hoàng Công Tuấn cho biết hoạt động kinh doanh ngân hàng là liên tục, khi những khoản cho vay khó thu hồi thì trên lý thuyết hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều nhưng chưa thể phản ánh sổ sách cụ thể đầy đủ hoàn toàn.
Trong 9 tháng đầu năm Eximbank là ngân hàng duy nhất báo lãi trước thuế giảm 12% so với cùng kỳ năm trước còn lại gần như các ngân hàng đều báo giữa lúc các nhà băng còn lại báo lãi tăng trưởng, thậm chí tăng bằng lần như NCB (NVB, gấp 7.2 lần), KLB (gấp 6 lần), NAB (gấp 3.7 lần)…
Tuy nhiên, cũng lo ngại nợ xấu tái cơ cấu nên nhiều ngân hàng cũng đã tăng mạnh trích lập từ dự phòng rủi ro để tăng “đệm phòng thủ” bất chấp ảnh hưởng có thể đến với lợi nhuận.
ACB là nhà băng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng 9 tháng nhiều nhất gấp 4 lần cùng kỳ dành ra 2,812 tỷ đồng, nhưng lãi trước thuế của ngân hàng này vẫn tăng 40% nghi nhận 8,968 tỷ đồng.

Cũng theo ông Tuấn, Ngân hàng nhà nước ước tính trong thời gian nợ xấu tiềm ẩn công nợ xấu nội bảng lên mức 8% đây là con số khá lớn. Dư nợ xấu được hạch toán trong quý 3 vừa rồi các ngân hàng lớn đều có xu hướng tăng lên, rất ít ngân hàng có nợ xấu giảm đi trên sổ sách chưa nói đến nợ xấu tiềm ẩn.
Theo thông tư, NHNN năm 2021 mới hạch toán 30% nợ xấu bị ảnh hưởng do dịch bệnh, trích lập quỹ dự phòng năm sau là 60% năm sau nữa là 10%. Như vậy trọng điểm sẽ là năm 2022 chịu tác động mạnh.
“Nợ xấu tiềm ẩn được phát sinh từ 2020, 2021 sẽ phản ánh lên hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng năm 2022. Nếu nhìn vào cơ cấu nợ, sẽ thấy có sự dịch chuyển nhóm nợ nghi ngờ tại một số ngân hàng tăng lên”, ông Tuấn nói thêm.
Ông Bùi Nguyên Khoa, Trưởng nhóm Phân tích Thị trường CTCP Chứng khoán Ngân hàng BIDV (BSI) cho rằng gần như cả quý 3 vừa rồi khi thực hiện lệnh giãn cách, các doanh nghiệp không thể hoạt động, trả nợ được chắc chắn nợ xấu sẽ tăng. Đây cũng là lý do các gói hỗ trợ được kêu gọi triển khai gói tín dụng giãn nợ để hỗ trợ lãi suất và doanh nghiệp hoạt động trong thời điểm hiện tại.
Kết luận:
Khi nền kinh tế dần đi vào quỹ đạo hoạt động trở lại bình thường, các doanh nghiệp sẽ có tiền để trả lãi từ đó những khoản nợ xấu ngân hàng và các tổ chức tài chính sẽ được giảm đi. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào nền kinh tế phục hồi trong tương lai nói chung và doanh nghiệp nói riêng.