Trong buổi gặp gỡ với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Nhật Bản, Chủ tịch Tập đoàn Aeon Motoya Okada đã cho biết dự định của công ty sẽ niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng từ Việt Nam sang Nhật Bản như hàng may mặc, thủy hải sản…
Khi Tập đoàn bán lẻ Nhật Bản Aeon đưa ra thông báo dự kiến sẽ niêm yết trên thị trường chứng khoán đã ít nhiều thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư. Trước dự định của tập đoàn bán lẻ số một của Nhật Bản này thì thực tế hiện nay các doanh nghiệp FDI đang niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam giờ ra sao?
Tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp FDI niêm yết trên sàn chứng khoán
Từ ngày 15/04/2003, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 38/2003/NĐ-CP cho phép một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi hình thức hoạt động từ Công ty TNHH sang CTCP, đồng thời cho phép những công ty cổ phần này được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tuy nhiên, kể từ khi Nghị định được ban hành cho đến nay, theo thống kê của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Việt Nam chỉ mới ghi nhận tổng cộng 11 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển đổi hình thức Công ty TNHH sang CTCP và được niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán trong nước.
Theo đó, trong giai đoạn 2003 đến 2008 có 10 doanh nghiệp FDI chấp nhận chuyển đổi từ công ty TNHH sang CTCP: CTCP Dây và Cáp điện Taya Việt Nam (2005), CTCP Thực phẩm Quốc tế (2006), CTCP Gạch men Chang Yih (2006), CTCP Full Power (2006), CTCP Công nghiệp Gốm sứ Taicera (2006), CTCP Công nghiệp Tung Kuang (2006), CTCP Quốc tế Hoàng Gia (2007), CTCP Mía đường Thành Thành Công Tây Ninh (2008), CTCP Mirae (2008). Đến năm 2010, có thêm công ty CTCP Everpia đăng ký chuyển đổi hình thức công ty và được niêm yết trên sàn chứng khoán.

Sau giai đoạn này, vào năm 2017 chỉ có thêm một doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài niêm yết là CTCP Siam Brothers Việt Nam được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014.
Nhưng đến nay, chỉ còn 8 doanh nghiệp FDI hiện tại đang niêm yết, 3 doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài khác đã hủy niêm yết trên thị trường chứng khoán, nguyên nhân là do hoạt động kinh doanh thua lỗ.
Giai đoạn từ năm 2016 – 2019, có 7/10 doanh nghiệp FDI niêm yết đăng ký giao dịch thường xuyên có lãi qua các năm, 3/10 doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài có kết quả kinh doanh thua lỗ là CYC, TCR, RIC.
Trong những doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì IFS là công ty có lợi nhuận sau thuế tăng trưởng bền vững nhất qua các năm, tăng hơn 5 lần từ năm 2016 đến năm 2019. Nhưng dù như vậy, số lãi của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn khá khiêm tốn, con số lãi cao nhất thuộc về SBT đạt hơn 500 triệu đồng trong năm 2018, nhưng đã giảm xuống còn 100 triệu đồng vào năm 2020. Hầu hết các doanh nghiệp khác có lãi thấp ở mức chỉ vài chục triệu đồng.
Năm 2020, đa số các doanh nghiệp FDI đang niêm yết trên sàn chứng khoán đều chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, phần lớn các doanh nghiệp này đều có lợi nhuận sau thuế giảm hoặc có kết quả kinh doanh thua lỗ, riêng chỉ có TKU và SBV là có lợi nhuận sau thuế tăng tương ứng 56% và 18%.
Hiện nay, vốn hóa doanh nghiệp FDI đang niêm yết, đăng ký giao dịch chiếm tỷ trọng khoảng 0,3% trong tổng vốn hóa thị trường. Như vậy, quy mô của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài niêm yết đăng ký là nhỏ so với quy mô của thị trường chứng khoán.
Ngoài ra, vẫn chưa xuất hiện tình trạng thoái vốn của cổ đông sáng lập và nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp FDI đang niêm yết, đăng ký giao dịch. Tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại 8/10 doanh nghiệp FDI hiện đang niêm yết, đăng ký giao dịch có xu hướng tăng sau khi lên sàn và chỉ có 2/10 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ sở hữu nước ngoài giảm.
Vì sao không có nhiều doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài niêm yết trên sàn chứng khoán?
Ông Nguyễn Hoàng Hải, Phó Chủ tịch hội Đầu tư Tài chính Việt Nam (VAFI) đưa ra lời giải thích lý do chưa có nhiều doanh nghiệp FDI chưa niêm yết trên sàn chứng khoán là bởi vì đa phần các công ty mẹ của những doanh nghiệp này đã niêm yết tại các nước sở tại, đó là những thị trường tài chính phát triển, đặc biệt là đối với những doanh nghiệp, tập đoàn lớn. Một nguyên nhân nữa được ông Hải đưa ra là các công ty FDI chưa có đủ các điều kiện để niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam hiện nay đa phần là các doanh nghiệp nhỏ, do các cá nhân định cư lâu dài ở Việt Nam lập nên. Để thúc đẩy nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lớn đăng ký niêm yết trên sàn, Việt Nam cần tiếp tục cải tổ thị trường tài chính.
Thực tế hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp FDI đang niêm yết là theo đề án thử nghiệm triển khai từ năm 2003, nhưng thực tế từ thời điểm ấy đến nay chỉ có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam do vướng mắc các quy định liên quan đến Luật Đầu tư, Luật Đầu tư nước ngoài với những vướng mắc liên quan đến cổ đông, cam kết thời hạn đầu tư…
Đối với Aeon, các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam do nhiều công ty thành viên đảm nhiệm với thương hiệu khác nhau trong đó hai pháp nhân chủ chốt là Công ty Aeon Mall Việt Nam đầu tư các trung tâm thương mại và công ty Aeon Việt Nam vận hành mảng bán lẻ. Ngoài ra, còn có các công ty khác như Aeon Mall Long Biên, Ministop, Aeon Citimart và công ty ACS Trading Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực mua, bán hàng trả chậm, dịch vụ tài chính.

Số liệu thống kê cho thấy, quy mô vốn chủ sở hữu của các pháp nhân chủ chốt đều khá lớn ví dụ như Aeon Mall Việt Nam với vốn chủ năm 2020 đạt hơn 11.000 tỷ đồng, Aeon Việt Nam với vốn chủ cuối năm 2020 đạt hơn 5.500 tỷ.
Tổng doanh thu của nhóm các công ty Aeon tại Việt Nam trong năm 2020 vừa qua đạt gần 14.300 tỷ đồng, đóng góp lớn nhất là Aeon Việt Nam với hơn 7.100 tỷ và ACS Trading với 3.800 tỷ đồng. Cùng với đó, việc mở thêm các trung tâm thương mại mới đi vào hoạt động doanh số của Aeon Việt Nam cũng tăng trưởng ổn định trong năm qua.
Nhưng do tác động của dịch bệnh và lệnh giãn cách xã hội tại một số thành phố lớn nên ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các công ty Aeon trong năm không được khả quan. Theo đó, lợi nhuận của Aeon Việt Nam Và Aeon Mall Long Biên giảm sâu, trong khi các công ty khác là Ministop, Citimart, ACS tiếp tục thua lỗ ở mức trên 100 tỷ đồng.
Theo quy định tiêu chuẩn để công ty được niêm yết trên HoSE hay HNX, vốn yêu cầu ROE năm liền trước năm nộp hồ sơ phải đạt 5%. Để đáp ứng được quy định này, các công ty thuộc Aeon cần cải thiện lợi nhuận nhiều trong thời gian tới.
Là một trong những công ty lớn trong cả hai phân khúc vận hành trung tâm thương mại và bán lẻ, nếu Aeon Việt Nam có đủ điều kiện để niêm yết trên sàn thì đây sẽ là một thương vụ chào sàn lớn của Việt Nam trong thời gian tới.